Quy định về thuế thu nhập cá nhân với khoản lợi tức được chia
PGS. TS Lý Phương Duyên - Phó Trưởng bộ môn Thuế (Học viện Tài chính) |
Trả lời: Câu hỏi này có 2 ý. Thứ nhất, tại điểm 2 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC quy định: Các khoản thu nhập chịu thuế TNCN gồm: thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ hoạt động kinh doanh.
Điều 90 Bộ Luật lao động số 45/2019/QH14: Tiền lương là khoản được tiền thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động khi thực hiện công việc. Tiền lương bao gồm tiền lương theo vị trí công việc, phụ cấp và các khoản bổ sung khác.
Điều 74 Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 ngày 17/6/2020 quy định về Công ty TNHH MTV. Theo đó, Công ty TNHH MTV là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty). Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Vì vậy, tiền lương, tiền công mà công ty TNHH trả cho giám đốc đồng thời là chủ sở hữu được coi như là phần thu nhập của công ty chứ không mang tính chất tiền lương, tiền công và vì vậy, không được khấu trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và không phải tính thuế TNCN.
Thứ hai: Theo Điều 11 Thông tư 92/2015/TT-BTC: Thu nhập từ đầu tư vốn là lợi tức nhận được do tham gia góp vốn vào công ty TNHH, công ty hợp danh, hợp tác xã, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh và các hình thức kinh doanh khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Hợp tác xã, lợi tức nhận được do tham gia góp vốn thành lập tổ chức tín dụng theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng; góp vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán và quỹ đầu tư khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Không tính vào thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn đối với lợi tức của doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH MTV do cá nhân làm chủ”.
Như vậy, tiền lương, tiền công của giám đốc công ty TNHH MTV đồng thời là chủ sở hữu của công ty không phải tính thuế TNCN đối với thu nhập từ đầu tư vốn.