Xử lý tiền cấp quyền khai thác khoáng sản
Căn cứ quy định tại:
- Điều 77 Luật Khoáng sản ngày 17/11/2010;
- Điều 42 Nghị định số 15/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản;
- Điều 9 Nghị định số 203/2013/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền CQKTKS;
- Điểm d Khoản 2 Điều 3 Luật Quản lý thuế ngày 13/6/2019;
- Điểm a Khoản 3 Điều 13 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế;
- Điểm e Khoản 1 Điều 5 và Điểm c.2 Khoản 1 Điều 25 Thông tư số 80/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế;
- Khoản 2 Điều 1 và Điều 2 Thông tư số 110/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số Điều của Quyết định số 33/2008/QĐ-BTC về Hệ thống Mục lục NSNN.
Căn cứ quy định tại Luật Khoáng sản, các Nghị định của Chính phủ quy định thi hành nêu trên và báo cáo của Cục Thuế (trong đó có: Quyết định số 48/QĐ-UBND ngày 26/1/2016 của UBND tỉnh Kon Tum về việc phê duyệt tiền CQKTKS quặng sắt xã Mô Rai, huyện Sa Thầy (nay là xã Ia Dal, huyện Ia Drai), tỉnh Kon Tum; Thông báo nộp tiền CQKTKS số 1545/TB-CT ngày 16/3/2016 của Cục Thuế) thì Công ty không phát sinh tiền CQKTKS nộp thừa. Cục Thuế chịu trách nhiệm về việc ban hành thông báo nộp tiền CQKTKS cũng như hạch toán thu NSNN đối với khoản tiền này theo đúng quy định pháp luật.
Tuy nhiên, việc Cục Thuế ban hành thông báo nộp tiền CQKTKS với số tiền còn phải nộp là 0 đồng do cho bù trừ với số tiền đã nộp cho Sở Tài chính ngay trên Thông báo nộp tiền là chưa phù hợp, bởi cơ quan thuế chỉ được thông báo số tiền phải nộp theo Quyết định phê duyệt của UBND tỉnh, còn việc xử lý chuyển bù trừ số tiền nộp theo thông báo của Sở Tài chính với số tiền phải nộp theo thông báo của cơ quan thuế là thuộc thẩm quyền của Sở Tài chính.
- Số tiền Công ty MTV khoáng sản Hoàng Anh Gia Lai đã nộp theo Thông báo số 428/TB-STC-CSG ngày 28/2/2013 của Sở Tài chính tỉnh Kon Tum về việc mức thu tạm thời tiền CQKTKS sắt địa điểm xã Mô Rai, huyện Sa Thầy là do Sở Tài chính thu và được Sở báo cáo UBND tỉnh chấp thuận hạch toán vào Tiểu mục thu khác ngân sách, không phải Tiểu mục thu tiền CQKTKS. Cơ quan thuế không quản lý số thu trên Tiểu mục thu khác ngân sách của địa phương, chỉ quản lý số thu trên các Tiểu mục hạch toán các khoản thu do ngành Thuế quản lý. Cục Thuế cũng đã báo cáo Công ty không phát sinh nộp thừa tiền CQKTKS trên hệ thống TMS. Cục Thuế chịu trách nhiệm về việc số liệu tiền CQKTKS nộp thừa thuộc trách nhiệm quản lý thuế của cơ quan thuế theo đúng quy định pháp luật.
Do vậy, cơ quan thuế không có trách nhiệm giải quyết hoàn trả số tiền nộp thừa liên quan cho Công ty, mà thẩm quyền giải quyết thuộc Sở Tài chính. Đề nghị Cục Thuế có văn bản gửi Sở Tài chính để biết và đề nghị Sở căn cứ quy định của Luật NSNN, Luật Quản lý thuế và các văn bản có liên quan trình cấp có thẩm quyền thực hiện hoàn trả số tiền CQKTKS Công ty đã nộp thừa cho Sở (nếu có) theo đúng quy định của pháp luật.
Tổng cục Thuế thông báo để Cục Thuế tỉnh Kon Tum được biết./.