Cơ chế tự thoả thuận giữa chủ đầu tư và người sử dụng đất
Cơ chế tự thoả thuận giữa chủ đầu tư và người sử dụng đất. |
Thứ nhất là nghiên cứu trình điều chỉnh Luật Đất đai theo hướng bổ sung quy định về cơ chế xử lý đối với trường hợp nhà đầu tư không thỏa thuận được với chủ sử dụng đất để nhận chuyển nhượng, thuê, nhận góp vốn quyền sử dụng đất để thực hiện dự án sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai là sửa đổi nội dung của Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT đảm bảo phù hợp với Nghị định số 43/2014/NĐ-CP. Cụ thể: Điểm a Khoản 2 Điều 82 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định, đối với trường hợp người sử dụng đất do nhận chuyển quyền sử dụng đất, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01/7/2014 mà bên nhận chuyển quyền sử dụng đất chỉ có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bên chuyển quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất theo quy định thì người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong khi đó, tại khoản 4 Điều 9 của Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT lại quy định nộp đơn đăng ký biến động đất đai.
Trả lời những vấn đề trên, Vụ Pháp chế, Bộ TN&MT cho biết, Quốc hội thảo luận kỹ khi thông qua Luật Đất đai năm 2013, đối với trường hợp chủ đầu tư thực hiện theo cơ chế thỏa thuận tại Điều 73 của Luật Đất đai năm 2013 thì chủ đầu tư phải tự chịu trách nhiệm, trong trường hợp này Nhà nước không can thiệp vào quá trình thỏa thuận.
Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1188/QĐ-TTg về việc thành lập Ban chỉ đạo tổng kết thi hành Luật Đất đai năm 2013 và xây dựng Dự án Luật Đất đai (sửa đổi). Do đó, đối với kiến nghị của cử tri liên quan đến cơ chế tiếp cận đất đai và Nhà nước thu hồi đất có thể sẽ được các địa phương tổng kết, đánh giá và xem xét trong quá trình sửa đổi Luật Đất đai năm 2013.
Điều 73 Luật Đất đai 2013 quy định: Việc sử dụng đất để thực hiện dự án, công trình sản xuất, kinh doanh không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật này mà phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt thì chủ đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Nhà nước có chính sách khuyến khích việc thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân để thực hiện dự án, công trình sản xuất, kinh doanh.
Liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định tại Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT, Vụ Pháp chế khẳng định: Tại Khoản 2 Điều 82 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định, trường hợp người đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trước ngày 01/7/2014 mà bên nhận chuyển quyền sử dụng đất chỉ có Giấy chứng nhận của bên chuyển quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng, giấy tờ về chuyển quyền sử dụng đất theo quy định thì người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và các giấy tờ về quyền sử dụng đất hiện có.
Điều 82 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định người sử dụng đất nộp đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận mà không quy định cụ thể sử dụng mẫu đơn nào. Việc quy định cụ thể sử dụng mẫu đơn nào đối với từng loại thủ tục thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường theo quy định tại khoản 2 Điều 96 của Luật Đất đai. Do đó, tại Khoản 4 Điều 9 của Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT quy định người sử dụng đất nộp Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất theo mẫu 09/ĐK để giải quyết thủ tục quy định tại khoản 2 Điều 82 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP là thống nhất và không có mâu thuẫn./.